Năm 2019 chứng kiến bức tranh kinh tế Việt Nam tiếp tục có nhiều mảng sáng, 12/12 chỉ tiêu kinh tế chủ yếu đạt và vượt kế hoạch, trong đó có đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Để thực hiện định hướng và mục tiêu thu hút FDI năm 2020 và trung, dài hạn, ngoài những việc đang thực hiện như hoàn chỉnh hệ thống pháp luật, cải cách thủ tục hành chính, thì cần tạo lập môi trường đầu tư hấp dẫn, chủ động trong việc lựa chọn dự án và nhà đầu tư.
Trong các nước tiếp nhận FDI, thì Hoa Kỳ vẫn là thị trường nhận vốn đầu tư lớn nhất. Tiếp theo là Trung Quốc, Hồng Kông và Singapore. Lần đầu tiên, Việt Nam nằm trong 20 nước thu hút FDI hàng đầu thế giới.
Nhật Bản trở thành nước đầu tư ra nước ngoài lớn nhất. Tiếp đó là Trung Quốc và Pháp. Lần đầu tiên Hoa Kỳ nằm ngoài danh sách top 20.
FDI chủ yếu là đầu tư xuyên biên giới của các công ty xuyên quốc gia (TNC) thông qua việc thành lập các dự án tại các nước tiếp nhận vốn đầu tư. Để thích ứng với sự thay đổi chuỗi giá trị toàn cầu trong thời đại kinh tế số, TNC đã áp dụng phương thức mới để tiếp cận thị trường không theo phương thức truyền thống, nhưng có hiệu quả hơn như thuê gia công, thuê dịch vụ, nhượng quyền, cấp phép và quản lý theo hợp đồng. Những hoạt động như vậy được gọi là “phương thức đầu tư xuyên biên giới không góp vốn” (NEM).
Hiện nay, các TNC đầu tư ra nước ngoài theo 2 phương thức: góp vốn như đã được thực hiện ở Việt Nam trong 30 năm qua với các hình thức chủ yếu: hợp đồng hợp tác kinh doanh, liên doanh và 100% vốn nước ngoài, M&A; không góp vốn theo NEM. Điển hình của NEM tại Việt Nam là Vingroup đã hợp tác với một số tập đoàn công nghệ hàng đầu thế giới như GM của Mỹ, Siemens của Đức để sản xuất ô tô tại Nhà máy VinFast.
Hai phương thức này có quan hệ với nhau. Một số nhà đầu tư thông qua phương thức NEM trước cho đến khi kinh doanh có lợi nhuận và đạt đồng thuận với đối tác trong nước thì chuyển sang phương thức góp vốn để tham gia quản trị doanh nghiệp.
Dự báo FDI 2020 và dài hạn
Theo SSI Research, tác động ngắn hạn từ cuộc chiến thương mại Mỹ – Trung chủ yếu là gián tiếp, thông qua sự mất giá của nhân dân tệ, Bắc Kinh tăng cường kiểm soát vốn và tâm lý giá xuống trên thị trường chứng khoán. Việt Nam vẫn đang phát triển, nhưng quy mô sản xuất tương đối nhỏ trên thế giới, không nằm trong top 20, đủ nhỏ để “đứng ngoài” cuộc tranh chấp thương mại của các nền kinh tế lớn, không bị ảnh hưởng tiêu cực nhiều trong ngắn hạn.
Cùng với đó, đồng tiền Việt Nam vẫn diễn biến tốt so với hầu hết các đồng tiền khác trong khu vực, chỉ mất giá 2,5% so với USD kể từ đầu năm. Tuy vậy, cảnh giác không bao giờ thừa khi kim ngạch thương mại của Việt Nam với Mỹ và với Trung Quốc chiếm khoảng 40% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu.
Đối với FDI, đang có nhiều nhà đầu tư Mỹ, châu Âu và châu Á chuyển xí nghiệp từ Trung Quốc về nước hoặc sang nước thứ ba. Việt Nam nằm trong sự lựa chọn hàng đầu, 2 năm gần đây, đã có một số nhà máy chuyển từ Trung Quốc sang nước ta.
Khi Chính phủ Mỹ áp đặt mức thuế nhập khẩu 25% đối với hàng hóa nhập khẩu từ Trung Quốc, buộc doanh nghiệp nước này tìm kiếm thị trường khác để tiêu thụ số hàng hóa không thể xuất khẩu sang Mỹ, đồng thời gia tăng đầu tư ra nước ngoài để đối phó với các biện pháp của Mỹ.
Việt Nam là nước láng giềng có tiềm năng lớn, nên sẽ được các doanh nghiệp Trung Quốc tìm kiếm cơ hội để mở rộng quy mô thương mại hai chiều, tăng nhanh các dự án đầu tư trực tiếp. Việt Nam cần nghiên cứu để nhận biết thách thức và cơ hội mới, có đối sách thích hợp với các doanh nghiệp Trung Quốc theo hướng lựa chọn, sàng lọc, bảo đảm lợi ích quốc gia trong việc hợp tác về thương mại và đầu tư giữa hai nước.
Trong bối cảnh quốc tế và khu vực, việc cộng đồng nhà đầu tư nước ngoài, các tổ chức quốc tế đánh giá cao môi trường kinh doanh và đầu tư của Việt Nam, với một số hiệp định thương mại tự do thế hệ mới bắt đầu có hiệu lực; Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết 50 về định hướng, chính sách mới về FDI, dự báo: tốc độ tăng vốn FDI thực hiện năm 2020 7-8%, đạt 23-24 tỷ USD, chiếm 22 – 23 % tổng vốn đầu tư xã hội; vốn đăng ký giai đoạn 2021 – 2025 khoảng 150 – 200 tỷ USD (30 – 40 tỷ USD/năm), giai đoạn 2026 – 2030 khoảng 200 – 300 tỷ USD (40 – 50 tỷ USD/năm); vốn thực hiện giai đoạn 2021 – 2025 khoảng 100 – 150 tỷ USD (20 – 30 tỷ USD/năm), giai đoạn 2026 – 2030 khoảng 150 – 200 tỷ USD (30 – 40 tỷ USD/năm).
Cùng với đó, tỷ lệ doanh nghiệp sử dụng công nghệ tiên tiến, quản trị hiện đại, bảo vệ môi trường, hướng đến công nghệ cao dự báo tăng 50% vào năm 2025 và 100% vào năm 2030 so với năm 2018; tỷ lệ nội địa hoá tăng từ 20 – 25% hiện nay lên mức 30% vào năm 2025 và 40% vào năm 2030; tỷ trọng lao động qua đào tạo trong cơ cấu sử dụng lao động từ 56% năm 2017 lên 70% vào năm 2025 và 80% vào năm 2030.
Mục tiêu số lượng có vốn đăng ký và vốn thực hiện. Vốn đăng ký là chỉ tiêu định hướng để tạo điều kiện cho vốn thực hiện. Trên thực tế, cho đến cuối năm 2019, vốn FDI đăng ký trên 360 tỷ USD, vốn FDI thực hiện 210 tỷ USD, còn 150 tỷ USD chưa thực hiện. Trong đó, chỉ 50-60 tỷ USD có thể giải ngân, hơn 100 tỷ USD là không hy vọng được thực hiện, trở thành “ vốn ảo”, cần loại ra khỏi thống kê về FDI để không tạo ra ảo tưởng còn quá nhiều vốn FDI chưa thực hiện.
Mục tiêu của giai đoạn 2021- 2025 vốn thực hiện 20 – 30 tỷ USD/năm và giai đoạn 2026 – 2030 30 – 40 tỷ USD/năm là hiện thực, vì năm 2019, vốn thực hiện khoảng 19 tỷ USD, tốc độ tăng bình quân năm 7-8% hoàn toàn khả thi.
Mục tiêu chất lượng đòi hỏi phải thay đổi tư duy và hành động trong việc lựa chọn đối tác và dự án FDI, bởi vì có liên quan đến chuyển giao công nghệ, quản trị doanh nghiệp, đào tạo nhân lực chất lượng cao, tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu. Đây là những nhược điểm của 30 năm thu hút FDI của nước ta đã được bàn thảo nhiều, nhưng chậm được khắc phục.
Định hướng mới về FDI trung hạn và dài hạn phải lấy chất lượng làm trọng, không khoan nhượng với dự án của bất kỳ ngành nghề, đối tác, địa phương nào, phải đặt trong bối cảnh nước ta đang theo đuổi chiến lược tăng trưởng với tốc độ cao để hướng đến nền kinh tế xanh, bền vững.
Mọi thắc mắc quý khách vui lòng liên hệ Tư vấn Blue để được tư vẫn miễn phí.